KỂ CHUYỆN NHÀ VĂN DIỄN
CHÂU
Đặc tính khá nổi bật
của nhà văn Diễn Châu là họ không bao giờ rời xa cội rễ quê hương của mình
trong sáng tác. Những tên sông, tên núi, tên đất, tên làng của quê hương luôn
gắn bó nâng đỡ tâm hồn họ. Rất nhiều phẩm chất quê hương trong thơ, văn của
những nhà văn xứ sở sông Bùng, lèn hai Vai trung thực và bay bổng. Người ở quê,
người xa quê, và cả những người đã khuất bóng….những nhà văn Diễn Châu luôn ấm
áp trong ta hình ảnh quê nhà.
Diễn Châu là vùng đất có truyền thống
văn nghệ lâu đời. Những huyền thoại ông Đùng- ông Khổng lồ (dùng sợi tóc buộc
vào núi rồi ghánh núi đi lấp biển), cố Bợ (dùng nón làm thuyền vượt biển đi lấy
lửa của mặt trời)…nói lên trí tưởng tượng tuyệt vời của người dân nơi đây. Diễn
Châu cũng có một kho tàng ca dao, hò, vè, dân ca, chuyện trạng, với những sinh
hoạt văn nghệ dân gian diễn xướng rất nổi tiếng, còn tồn tại đến ngày nay.
Nhiều đội văn nghệ được thành lập trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sáng
tác thơ ca, nhạc, kịch mới phục vụ kháng chiến và sinh hoạt của nhân dân rất
hiệu quả. Nhưng đội văn nghệ Diễn Minh, Diễn Bình có nhiều tác phẩm đoạt giải
thưởng ở Trung ương trong các kỳ hội diễn đã chứng minh khả năng văn nghệ xuất
sắc của quần chúng. Từ trong kháng chiến chống Pháp, bài thơ Thăm lúa của tác giả Trần Hữu Thung đã
đoạt giải thương quốc tế tại Bucaret ( 1953). Bộ phim truyện đầu tiên của xưởng
phim truyện Việt Nam
Chung một dòng sông có người Diễn
Châu là đồng tác giả. Vở chèo Cô gái sông
Lam nổi tiếng, được Bác Hồ khen cũng là do người Diễn Châu sáng tác. Ca
khúc Làng quan họ quê tôi được làm
nhạc hiệu của tỉnh Bắc Ninh, được dàn nhạc giao hương Laizich trình diễn tại
Đức và được biểu diễn ở nhiều nước trên thế giới không phải là sáng tác của
người Bắc Ninh, mà là sáng tác của người Diễn Châu. Nhiều học giả, dịch giả quê
Diễn Châu từ rất sớm đã nghiên cứu những đề tài quan trọng về văn học, triết
học phương Đông, hoặc dịch những bộ trường ca sử thi lớn của Ấn Độ, hay bộ tiểu
thuyết đồ sộ Chiến tranh và Hoà bình của
Liên Xô. Trong nhiều lĩnh vực văn học, người Diễn Châu đã có những đóng góp
đáng kể. Sách Nhà văn Việt Nam hiện đại
ghi tên những nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, có tỉnh chỉ có 5 nhà
văn, vậy mà con số nhà văn quê Diễn Châu đã có tới gần 20 người. Điều đó cũng
phần nào nói lên truyền thống văn chương của Diễn Châu là vô cùng phong phú.
Những tác giả tại chỗ đã có Chi hội
văn nghệ riêng để sinh hoạt, ra được tập san Văn nghệ Diễn Châu bề thế, có
nhiều cái tên đã trở thành quen thuộc như Nguyễn Nghĩa Nguyên, Phan Tường Hy,
Đặng Quang Liễn, Cao Xuân Thưởng, Quang Hồng….Trên mỗi lĩnh vực văn, thơ, kịch,
nghiên cứu, dịch thuật….những nhà văn Diễn Châu đều đóng góp cho quê hương, đất
nước nhiều tác phẩm có giá trị. Nếu tập hợp lại đầy đủ, chắc huyện nhà sẽ có
một tủ sách lớn, thật đáng tự hào.
Trước tiên là nhà văn lão thành Thanh
Châu. Ông tên thật là Ngô Hoan, sinh năm 1912, quê xã Diễn Hồng. Ông làm báo,
viết truyện cùng thời với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng trước
năm 1945. Hồi đó ông đã từng làm thư ký toà soạn Tiểu thuyết thứ bày, từng in
bài thơ Hai sắc hoa ti- gôn của TTKH
mà tên tác giả này vẫn còn là điều bí ẩn cho đến ngày hôm nay. Tới kháng chiến
chống Pháp, ông tham gia quân đội, phụ trách báo Vệ Quốc quân, rồi làm các báo
Văn nghệ, báo Văn. Tập truyện ngắn đầu tay của ông xuất bản năm 1936 có tên là Trong bóng tối. Sau đó là các tập truyện
ngắn và tiểu thuyết Người thầy thuốc (
1938), Tà áo lụa (1942), Cái ngõ tôi ( 1944); các phóng sự dài : Những ngày trao trả tù binh ( 1954), Không rời quê hương ( 1955); và 2 tập
truyện thiếu nhi nổi tiếng: Cún số 5 (
1942), Vàng( 1950)…Năm 1999 tôi đã
đến thăm ông tại căn hộ nhỏ đường Trần Quốc Toản, Hà Nội. Ông mùng như gặp lại
quê nhà, và kể rằng, ông chỉ sống ở quê có mấy năm tuổi thơ, nhưng nay gần 90
tuổi vẫn còn nhớ những cánh đồng đất cát pha, đậu lạc ngô lúa bốn mùa tươi tốt,
và ông lấy bút danh Thanh Châu là để mãi nhớ về quê hương Diễn Châu quanh năm
xanh tươi.
Nhà thơ Trần Hữu Thung sinh năm 1923
tại xã Diễn Minh. Mất năm 1999. Ông thi đỗ xuất sắc vào trường Quốc học, được
vua Bảo Đại ban thưởng cuốn Truyện Kiều, nhưng ông từ chối không nhập trường mà
ở lại quê tham gia Cách mạng, làm chỉ tịch xã, rồi thoát ly làm cán sự Văn hoá
Liên khu IV. Từ đó ông làm ca dao, làm thơ phục vụ kháng chiến. Bài thơ Thăm
lúa được tặng giải nhất tại liên hoan Thanh niên sinh viên thế giới 1953 đã đưa
tên tuổi ông vào văn học Việt Nam. Nhưng không chỉ có vậy, Trần Hữu Thung đã
sáng tác và viết nghiên cứu với rất nhiều những tác phẩm khác mang đậm tâm hồn
và ngôn ngữ của nông thôn Diễn Châu quê ông. Đấy là các tập thơ: Đồng tháng Tám (1955), Dặn con (1955), Ngày thu ấy (1957, Gió Nam
(1962), Hai Tộ hò khoan (1961), Chị Nguyễn Thị Minh Khai (1961), Đất quê mình (1971), Tiếng chim đồng chiêm (1975), Anh vẫn
hành quân (1983), Sen quê Bác
(1985); các tập bút ký: Vinh rực lửa
(1969), Ký ức đồng chiêm (1988) Hồi ức về săn bắn (1996). Ngoài ra ông
còn viết kịch bản phim Ngày ấy bên bờ
sông Lam (1980), tiểu luận Tôi làm ca
dao (1959), Tiếng hát ru (1975),
sưu tầm ca dao về Bác Hồ, Giai thoại văn học ở Nghệ Tĩnh, và Từ điển
tiếng Nghệ (soạn chung với Thái Kim Đỉnh). Ông còn được tặng nhiều giải
thưởng giá trị khác như: Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954- 1955, giải
nhất bút ký báo Văn nghệ và đài TNVN 1986 cao nhất là Giải thưởng Nhà nước đợt
( 2001). Ông từng giữ nhiều chức vụ trong văn nghệ như Ban chấp hành Hội nhà
văn Việt Nam, Hội trưởng Hội văn nghệ Nghệ An khoá đầu tiên, Chủ tịch Hội VHNT
Nghệ Tĩnh.
Nhà văn Sơn Tùng sinh năm 1928 tại xã
Diễn Kim. Ông tham gia Thanh niên Cứu quốc kháng chiến chống Pháp. Năm 1955 là
đại biểu dự Đại hội Thanh niên sinh viên thế giới tại Ba Lan. Ông từng là phóng
viên “ vượt Trường Sơn” vào tận Nam Bộ, rồi bị thương nặng năm 1971, là thương
binh loại ¼ được tiêu chuẩn có người phục vụ, nhưng ông vẫn sáng tác sung sức.
Bài thơ Chiếc nón bài thơ của ông
được phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng. Ông xuất bản nhiều tập truyện thơ,
truyện danh nhân, truyện ngắn và tiểu thuyết như: Bà mẹ làng Kim, Nhớ nguồn, Người vẽ cờ Tổ Quốc, Con người và con đường,
Lõm, Hoa dâm bụt. Đặc biệt ông tâm đắc nghiên cứu và viết sách về Bác Hồ,
và tiểu thuyết Búp sen xanh của ông
đã được tái bản nhiều lần và được giải thưởng đặc biệt của Trung ương Đoàn
TNCSHCM.
Nhà thơ Võ Văn Trực sinh năm 1936 tại
xã Diễn Bình. Có lẽ anh cũng như nhà thơ Trần Hữu Thung bên lèn Hai Vai, suốt
đời đau đáu ngẫm ngợi, cày xới trên trang giấy về một vùng văn hoá quê nhà. Anh
làm thơ, viết ký, viết tiểu luận, nghiên cứu sưu tầm và đã xuất bản trên 20
cuốn sách: Trận địa quê hương, Người anh
hùng đất Hoan Châu, Ngày hội của rạng đông, Trăng phù sa, Tiếng ru đồng nội, Trăng
trong vườn bão, Truyền thuyết núi Hai Vai, Những thi sĩ dân gian, Những dấu
chân lịch sử, Cố Bợ…vv..Mỗi lần gặp anh là mỗi lần nói chuyện làng quê, về
truyền thống văn hoá và cách mạng của quê hương. Anh như một khối đau đớn khi
nói về những hiện tượng văn hoá làng quê bị tàn phá. Chính vì thế mà bài bút ký
“Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa” và
tiểu thuyết “ Chuyện làng ngày ấy” của
anh đã làm lay động lòng người, Võ Văn Trực là một người không bao giờ chịu lùi
trước những cám dỗ của những kẻ cơ hội xúc phạm đến nhân cách con người. Vì thế
mà tiểu thuyết mới nhất của anh có tên là Kẻ
cơ hội. Võ Văn Trực đã hai lần đoạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam.
Ở xã Diễn Thịnh có 2 nhà thơ họ Cao,
đó là Cao Huy Đỉnh và Cao Xuân Hạo. Nhà thơ Cao Xuân Hạo sinh năm 1930. Học ở
Huế rồi tham gia quân đội trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1956 ông tốt nghiệp
Đại học Văn khoa Hà Nội rồi ở lại giảng dạy khoa ngôn ngữ. Ông giỏi tiếng Pháp,
tiếng Anh, tiếng Nga. Từng sáng tác một số ca khúc trong kháng chiến, nhưng sự
nghiệp văn chương của ông chủ yếu là dịch sách văn học. Những cuốn sách ông
dịch rất nổi tiếng như: Người con gái
viên đại uý ( 1959), Chiến tranh và
hoà bình (1962), Chuyện núi đồi và
thảo nguyên (1963), Truyện ngắn Gorki
(1966), Con đường đau khổ (1973), Tội ác và trừng phạt ( 1983), Đèn không hắt
bóng (1986), Papilon và Khải hoàn môn
(1988),..vv..Ông dịch rất nhiều sách tiếng Nga bằng tự học trong vòng 6
tháng, nhưng với trí thông minh và sự am hiểu tường tận về văn học, văn hoá
cộng với lối hành văn rất trong sáng, sách dịch của ông thật hấp dẫn. Hiện ông
là giáo sư ngôn ngữ, tuy đã hơn 70 tuổi nhưng vẫn tham gia giảng dạy ở Đại học
thành phố Hồ Chí Minh. Nhà văn Cao Huy Đỉnh hơn Cao Xuân Hạo 3 tuổi. Ông là một
nhà nghiên cứu văn hoá dân gian có đóng góp xuất sắc với cuốn “ Tìm hiểu tiến trình văn hoá dân gian” rất
nổi tiêng; đồng thời ông cũng là một nhà dịch thuật nhạy cảm với các tập thơ có
giá trị như thơ Tagor (1961), Mahabharata
(1979), Sơkuntơla (1962),vv.. Cao
Huy Đỉnh từng làm trưởng ban nghiên cứu Đông Nam Á của UBKHXH Việt Nam, và đã từng
được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996.
Ở Diễn Lộc có hai nhà văn là Thái Bá
Tân và Hoàng Hữu Các. Anh Thái Bá Tân sinh năm 1950 và tốt nghiệp đại học Ngoại
ngữ tại Maxcơva 1974. Anh đã dịch và cho xuất bản khoảng 30 tập thơ, văn từ
tiếng Anh và tiếng Nga sang tiếng Việt. Nhưng anh cũng là một người sáng tác
rất khoẻ, và đã cho in tới cả nghìn trang sách: Thơ sáu câu, Bàn tay hình chiếc lá, Thơ chọn lọc, Truyện ngắn Thái Bá
Tân..vv..50 tuổi anh xin nghỉ việc cơ quan Nhà nước để tự mình làm những
công việc mình thích như viết sách, dạy học. Còn nhà văn Hoàng Hữu các sinh năm
1946, từng là bộ đội thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân. Anh là một nhà
văn sắc sảo và bộc trực. Các tập sách của anh như tiểu thuyết: Trên không yên tĩnh, Câu chuyện không định
viết và Ký sự Sư đoàn đều gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Anh cũng
là một cây bút báo chí xông xáo và nhạy bén. Đã từng đoạt giải thưởng bút ký
của báo Văn nghệ và Đài TNVN.
Nhà thơ Lê Thái Sơn sinh năm 1949 tại
xã Diễn Hoa, anh nguyên là Chủ tịch Hội VHNT Nghệ An. Lê Thái Sơn bước vào làng
văn bằng những bài thơ viết cho thiếu nhi, và cho đến nay anh đã xuất bản 3 tập
thơ cho tuổi nhỏ: Sao Hôm sao Mai (1984), Mùa na chín (1997), Cất nắng (2005)
và đã từng đoạt giải thưởng của Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam
( 1996- 1997). Nhưng anh cũng viết nhiều thơ cho người lớn với nhiều tứ thơ độc
đáo, hóm hỉnh và giàu tâm trạng qua 2 tập thơ Gốc cây rừng trong mơ (1990) và Tháng
Giêng xanh ( 2000). Ngoài ra anh còn có tập truyện Cổ tích ở làng (2004), và
nhiều chuyên khảo về văn hoá dân gian xứ Nghệ. Anh cũng là nhà văn có nhiều
thành tựu và nhận khá nhiều giải thưởng của Trung ương và địa phương.
Có 4 nhà văn nữ là Thanh Hương ( tức
Đặng Thị Xuân – người Diễn Hoa), Hoàng Ngọc Hà (Diễn Cát), Võ Thị Hảo (Diễn
Bình) và Nguyễn Thị Phước (Diễn Xuân). Cả 4 đều là “Quan”, Thanh Hương là Phó
chủ nhiệm uỷ ban văn hoá giáo dục thanh niên và nhi đồng Quốc hội, Hoàng Ngọc
Hà từng là Tổng thư ký Hội nhà văn Hà Nội. Võ Thị Hảo là Trưởng ban biên tập
báo Gia đình và tuổi thơ. Nguyễn Thị Phước là Tổng biên tập tạp chí Sông Lam.
Nhà văn Thanh Hương là một nhà viết kịch nổi tiếng với các tác phẩm Ngôi sao ban ngày (1972), Thung lũng tình
yêu (1980), Vàng (1985), Đỉnh cao và vực thẳm ( 1991), bài ca người mẹ (1995),
Đời người giấc mộng (1996)..vv…Nhà văn Hoàng Ngọc Hà đã từng là Phó Ban dân
vận Thành uỷ Hà Nội, văn của chị khá dữ dội và xót xa. Chị đã cho xuất bản một
loạt tiểu thuyết như: Chuyện tình của
người mẹ ( 1990), Hoa nước mắt (1993), Tia nắng mong manh (1994), Nỗi buồn im
lặng (1995),vv…Nhà văn Võ Thị Hảo là một nhà báo viết rất khoẻ và sâu,
nhưng vẫn đều đều cho công bố những tác phẩm văn học được dư luận chú ý như Biển cứu rỗi (1992), Chuông vọng cuối chiều
(1994), Truyện ngắn chọn lọc Võ Thị Hảo (1995), Một trăm cái dại của đàn ông (
1993),vv…Truyện ngắn Rừng cười
của chị được chuyển thành vở diễn sân khấu, phim truyện và gây được ấn tượng
mạnh. Gần đây nhất là tiểu thuyết Giàn
thiêu dày 600 trang được dư luận đánh giá cao, và được Hội VHNT Hà Nội tặng
giải thưởng. Nguyễn Thị Phước là một nhà văn trẻ cả về tuổi đời và giọng điệu.
Ngòi bút của chị luôn xoáy sâu vào những vấn đề bức xúc của xã hội, những số
phận bị vùi dập với một tình yêu trong trẻo mà đau đớn. Chị viết truyện ngắn,
bút ký và làm thơ. Các tập thơ Tự ru, Lời
cánh đồng, Cho đồng thơm gió, và các tập văn xuối Chuyến tàu tháng bảy, Người tìm mật…..đã khẳng định tư cách nhà văn
của chị, một con người nghiêm khắc nhưng cũng giàu lòng vị tha. Nhờ vậy mà chị
đã được nhận nhiều giải thưởng về văn học của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, giải
thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam, giải thưởng Nguyễn Du và giải
thưởng Hồ Xuân Hương. Các chị không bao giờ dấu tuổi của mình, chị Hoàng Ngọc
Hà sinh năm 1936, chị Thanh Hương sinh năm 1939, chị Võ Thị Hảo sinh năm 1956
và chị Nguyễn Thị Phước sinh năm 1963.
Nhà văn Nguyên Công nguyên là quyền
chủ tịch tỉnh Phú Khánh (cũ), ông là người xã Diễn An. Tên thật của ông là Cao
Xuân Thiêm, sinh năm 1928. Ông phiêu bạt vào Nam từ năm 13 tuổi rồi tham gia
kháng chiến ở vùng đất liên khu 5. Hoà bình lập lại ông không tập kết ra Bắc mà
tiếp tục tham gia Cách mạng và làm thơ. Sau khi chia tỉnh Phú Khánh, ông làm
Chủ tịch Hội văn nghệ Phú Yên và sống ở thị xã Tuy Hoà. Ông đã xuất bản các tập
thơ: Bất khuất (1964), Mảnh đất yêu
thương (1978), Khúc hát miền quê (1985), Trước chiều gió (1995), Hương đêm
(1996)và 2 tập bút ký Miền đất huyền
thoại và Vùng đất lửa. Phần thơ của ông in chung trong tập Tiếng hát miền Nam được tặng giải thưởng
Nguyễn Đình Chiểu 1965. Ông nghỉ hưu tại thị xã Tuy Hoà.
Nhà thơ Phạm Quốc Ca sinh năm 1952
tại xã Diễn Kỷ. Hiện anh là tiến sĩ Ngữ văn, giảng dạy tại trường Đại học KHXH
và Nhân văn Đà Lạt. Anh tên thật là Phạm Đình Ca, đến năm 12 tuổi tự đổi tên
Phạm Quốc Ca, rồi năm 18 tuổi vào bộ đội tham gia chiến đấu ở chiến trường miền
Đông Nam Bộ. Thơ anh chân thật và khắc khoải tình quê hương, đồng nội. Anh đã
xuất bản các tập thơ: Tiếng trầm (1987),
Chân trời mở (1994), Làng trong nỗi nhớ (1996), và Những cánh rừng những bài ca
(2005). Phạm Quốc Ca còn dịch và viết tiểu luận văn học đã in thành tập Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975- 2000.
Nhà văn Thái Chí Thanh quê Diễn Hoa,
hiện là Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan, là người viết tiểu
thuyết và truyện dài cho thiếu nhi. Anh đã có nhiều sách và một số giải thưởng
văn học. Từ Ba Lan anh vẫn gửi truyện ngắn về in trên báo Văn Nghệ.
Nhà văn Trương Đăng Dung sinh năm
1955 tại xã Diễn Trường, hiện là Phó viện trưởng Viện văn học Việt Nam là một nhà
nghiên cứu lý luận văn học tầm cỡ hiện nay. Anh đã cho in một số cuốn sách
nghiên cứu được đánh giá cao như cuốn Từ
văn bản đến tác phẩm (1998), Tác phẩm văn học như là quá trình (2004). Anh
cũng là người dịch truyện Kiều sang tiếng Hunggari, và dịch một số tiểu thuyết
và sách nghiên cứu của nước ngoài sang tiếng Việt Nam như: Lâu đài, Đứa trẻ mồ côi, Thằng điên và quỷ sứ, Trên đường đến với ngôn
ngữ, Nghệ thuật và chân lý khách quan…
Nguyễn Trọng Tạo sinh ở xã Diễn Hoa.
Vào bộ đội từ kháng chiến chống Mỹ, phụ trách một đoàn văn công xung kích thuộc
Quân khu IV, rồi được quân đội cử đi học trường Đại học viết văn Nguyễn Du khoá
1. Khi ra quân, công tác tại Huế, tham gia BCH Hội VHNT Thừa Thiên Huế. Sau 10
năm lại chuyển ra Hà Nội làm Tạp chí Âm nhạc của Hội nhạc sỹ VN, tham gia Hội
đồng thơ Hội nhà văn Việt Nam và trực tiếp làm trwngr ban biên tập báo Thơ của
Hội tưg 2003- 2004. Đã xuất bản được 20 cuốn sách, trong đó có các tập thơ Sóng thuỷ tinh, Gửi người không quen, Đồng
dao cho người lớn, Thơ trên máy chữ và Tản mạn thời tôi sống, Nương thân, Thế
giới không còn trăng, các tập trường ca Con
đường của những vì sao, Tình ca người lính; Các tập tiểu luận Văn chương cảm và luận, Chuyện ít biết về
văn nghệ sỹ..vv..Ngoài ra còn viết báo, vẽ bìa sách, trình bày báo và sáng
tác âm nhạc. Đã xuất bản được một vài cuốn sách nhạc như Làng quan họ quê tôi, Tình khúc bốn mùa kèm theo đĩa CD chương
trình ca nhạc. Được tặng khá nhiều giải thưởng: Giải thưởng thơ Nghệ An 1969,
Giải thưởng báo Văn nghệ, báo Nhân dân, tạp chí Văn nghệ Quân đội, 2 giải
thưởng VHNT Cố Đô, giải thường Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam, giải
thưởng Hồ Xuân Dương, 2 giải thường bìa sách của Bộ VHTT, và 10 giải thưởng về
âm nhạc.
Đặc tính khá nổi bật của nhà văn Diễn
Châu là họ không bao giờ rời xa cội rễ quê hương của mình trong sáng tác. Những
tên sông, tên núi, tên đất, tên làng của quê hương luôn gắn bó nâng đỡ tâm hồn
họ. Rất nhiều phẩm chất quê hương trong thơ, văn của những nhà văn xứ sở sông
Bùng, lèn hai Vai trung thực và bay bổng. Người ở quê, người xa quê, và cả
những người đã khuất bóng….những nhà văn Diễn Châu luôn ấm áp trong ta hình ảnh
quê nhà.
Nguyễn Trọng Tạo
|